ỦY BAN MTTQ VIỆT NAM CÁC CẤP TỈNH ĐIỆN BIÊN THI ĐUA THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI MTTQ VIỆT NAM TỈNH ĐIỆN BIÊN KHÓA XII, NHIỆM KỲ 2019-2024
  • TỔNG QUAN VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
  • Thời gian đăng: 12/16/2021 8:01:17 AM
  • TỔNG QUAN VỀ TÔN GIÁO VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA

    MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM

    Ngô Sách Thực, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam

    1. Chủ trương, quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo

    1.1. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo

    Trải qua các giai đoạn lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng xây dựng đoàn kết các dân tộc, tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đây là đường lối chiến lược để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

    Tư tường Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: phải kế thừa những giá trị nhân bản của tôn giáo, tranh thủ các giáo sĩ quan tâm đến giáo dân; không chỉ đoàn kết những người có đạo và không có đạo mà còn giáo dục tinh thần đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Người đã nhấn mạnh “Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị kẻ đội lốt tôn giáo để phản chúa, phản nước”. Người đề xuất việc pháp luật hóa chính sách về quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên của hội đồng chính phủ lâm thời (3/9/1945) Hồ Chủ tịch đã phát biểu: “Tôi đề nghị Chính phủ ta tuyên bố: Tín ngưỡng tự do, Lương - Giáo đoàn kết”. Đồng thời nghiêm khắc phê phán những sai phạm về chính sách tôn giáo của chính phủ, của cán bộ nhất là những cán bộ dân vận làm công tác tôn giáo. Phải có thái độ đúng đắn và phân biệt giữa tín ngưỡng chân chính với những kẻ lợi dụng tôn giáo. Ngoài việc nghiêm khắc phê phán, Người có biện pháp hữu hiệu với những kẻ lợi dụng tôn giáo vì mục đích ngoài tôn giáo dù ở cương vị nào. Hồ Chí Minh luôn biết phát hiện những điểm tương đồng giữa tôn giáo với cách mạng, giữa đức tin tôn giáo với tình yêu Tổ quốc để giữ gìn, phát huy, đồng thời biết tôn trọng những dị biệt về thế giới quan hướng sức mạnh của khối đại đoàn kết vào việc thực hiện nhiệm vụ chung của cách mạng. Đối với Hồ Chí Minh, người có tín ngưỡng, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn với nhau, mà mỗi một người vừa là một người dân yêu nước vừa là một tín đồ chân chính. Tư tưởng về tôn giáo của Người là sự kế thừa chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn tôn trọng niềm tin mang tính thiêng của các tín đồ, đặc biệt tư tưởng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã được vận dụng linh hoạt trong giải quyết vấn đề tôn giáo mà chủ yếu là vận động để mọi tín đồ, chức sắc hiểu và thực hiện các chủ trương, chính sách của Nhà nước; sống “tốt đời, đẹp đạo”. Tư tưởng và đạo đức nhân văn của Người là toàn diện và cao cả. Qua các bức thư gửi cho đồng bào các tôn giáo và các chức sắc tôn giáo, Người luôn đề cao cái chung của mọi người, không kể Lương hay Giáo, là lòng yêu nước, đó là cái căn bản. Còn cái riêng, cái dị biệt về đức tin, lối sống: đồng bào Giáo thì có tình cảm kính Chúa, đồng bào Lương thì ngưỡng mộ Đức Phật chỉ là sự khác biệt nhỏ, không căn bản. Chúng ta cần phải bỏ qua cái dị biệt nhỏ, giữ lại cái tương đồng lớn. Có thể nói: “Cầu đồng, tôn dị, hiệp thương đạt đến mục đích độc lập dân tộc, tự do hạnh phúc cho con người” là nguyên tắc ứng xử của Hồ Chí Minh đối với tôn giáo. Người nói: "Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha"; "Đức Giê su hy sinh là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc"...; "Khổng Tử sinh ra cũng là để giúp con người sống nhân nghĩa vì một thế giới đại đồng". Vì vậy "Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng bào Lương và các đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc". Hồ Chí Minh đã nhận ra sự tương đồng giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội, sự tương đồng giữa người có đạo với người không có đạo. Suy cho cùng, mọi tôn giáo chân chính đều đưa ra một mô hình xã hội tốt đẹp. Người viết: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm chung đó sao? Họ đều muốn hạnh phúc cho loài người, cho xã hội. Nếu nay họ còn sống trên đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định sống chung với nhau hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy”. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta là hiện thân của sự kết hợp hài hoà những điều tốt đẹp nhất của con người “trần thế” với những giá trị của các tôn giáo.

    Thời kỳ đổi mới, chủ trương, quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện ở các văn bản: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 Bộ Chính trị khóa VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Chỉ thị số 37 CT/TW ngày 02 tháng 7 năm 1998 của Bộ Chính trị về công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25 NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về công tác tôn giáo; Chỉ thị số 18-CT/TW ngày 10/1/2018 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25- NQ/TW.

    Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “ tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo về Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự phát triển của đất nước”.

     Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 theo Đại hội XIII của Đảng đã đề ra: "Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật. Phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo vào giữ gìn và nâng cao đạo đức truyền thống xã hội, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư, góp phần ngăn chặn các tệ nạn xã hội[1]". Đồng thời phải: "Xử lý hài hòa các vấn đề dân tộc, tôn giáo, bức xúc xã hội, không để xảy ra các "điểm nóng".

    Quan điểm, chủ trương của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo là nhất quán, có sự  kế thừa và phát triển qua các giai đoạn lịch sử, trong giai đoạn hiện nay được thể hiện ở các quan điểm cơ bản:

    Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của mọi người;

    Hai là, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

    Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng;

    Bốn là,bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận;

    Năm là, phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước;

    Sáu là, kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

    Bảy là,tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo;

    Tám là,các tôn giáo thực hiện quan hệ đối ngoại phù hợp với đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước;

    Chín là,công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;tăng cường công tác tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị.

    1.2. Chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng

    Thời kỳ đổi mới, Nhà nước ta đã có các văn bản pháp luật về tôn giáo: Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013; Nghị định số 69/NĐ-HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng bộ trưởng qui định về các hoạt động tôn giáo; Nghị định số 26/NĐ-CP ngày 19/4/1999 của Chính phủ về hoạt động của tôn giáo; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo, số 18/2004/L/CTN, công bố ngày 29 tháng 6 năm 2004, sau đó Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 92/NĐ-CP ngày 08/11/2012, quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của TTCP về một số công tác đối với đạo Tin lành. Chỉ thị 1940/CT-TTg của TTCP về nhà đất liên quan đến tôn giáo. Đặc biệt là Luật tín ngưỡng, tôn giáo ban hành năm 2016, có hiệu lực từ 1/1/2018, Nghị định 162/2017/NĐ-CP, ban hành ngày 30/12/2017 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Một số điểm mới và điểm cần quan tâm trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo là:

    (1) Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

       Cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013 "Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào", Luật đưa ra một chương riêng quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam.Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền của tất cả mọi người và quyền này không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Việc quy định này thể hiện đúng bản chất quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là quyền con người.

      Luật đã bổ sung 01 chương về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo với 04 điều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; quyền của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

    (2) Trách nhiệm của nhà nước trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 3)

        Luật quy định trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đó là Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; Bảo đảm để các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; Nhà nước tôn trọng, bảo vệ giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tín ngưỡng, tôn giáo, truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng đáp ứng nhu cầu tinh thần của Nhân dân; Nhà nước bảo hộ cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo và tài sản hợp pháp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo.

     (3) Các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 5)

        Trên cơ sở kế thừa các hành vi bị nghiêm cấm quy định tại Pháp lệnh, thể chế điều 14 Hiến pháp năm 2013, Điều 5 của Luật đã đưa ra các hành vi bị nghiêm cấm gồm: Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo và hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo bị cấm khi xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi.

    (4)Về hoạt động tín ngưỡng

    Luật qui định việc tổ chức hoạt động tín ngưỡng, lễ hội phải bảo đảm bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tiết kiệm và bảo vệ môi trường (Điều 10).

    Cơ sở tín ngưỡng phải có người đại diện hoặc ban quản lý để chịu trách nhiệm trước pháp luật về các hoạt động diễn ra tại cơ sở tín ngưỡng. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm phối hợp với ủy ban mặt trận Tổ quốc cùng cấp tổ chức để cộng đồng dân cư bầu, cử người đại diện hoặc thành viên ban quản lý. Ủy ban nhân dân cấp xã có văn bản công nhân người đại diện hoặc thành viên ban quản lý cơ sở tín ngưỡng trong thời hạn qui định... (Điều 11, 12, 15).

    (5) Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo

     Tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.

    Chức sắc, chức việc, nhà tu hành, người đại diện, ban quản lý cơ sở tín ngưỡng có trách nhiệm hướng dẫn tín đồ, người tham gia hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo thực hiện hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo đúng quy định của pháp luật.

    (6) Đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung

    Luật qui định 3 chủ thể được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung (Điều 16). Việc đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung không xem là mốc khởi điểm để hình thành về tổ chức, trong khi đó Pháp lệnh quy định đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung là điểm khởi đầu, mốc đầu tiên đánh dấu sự hình thành của tổ chức, để sau đó nếu có đủ điều kiện theo quy định sẽ tiến tới đăng ký hoạt động tôn giáo và công nhận về tổ chức.Thời gian công nhận tổ chức tôn giáo từ 23 năm giảm còn 05 năm.

      (7) Về tổ chức tôn giáo

    Tư cách pháp nhân của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc: Tổ chức tôn giáo là pháp nhân phi thương mại kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.

               Tổ chức tôn giáo đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 29 của Luật này cấp đăng ký pháp nhân phi thương mại cho tổ chức tôn giáo trực thuộc khi đáp ứng các điều kiện quy định tại các khoản 5 và 6 Điều 21 của Luật này.

              Luật qui địnhđăng ký hoạt động tôn giáo, công nhận tổ chức tôn giáo; thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo trực thuộc.

              (8) Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc

     Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc thực hiện việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử theo hiến chương của tổ chức tôn giáo.

     Người được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự.

     Việc phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo quy định tại Điều 51 của Luật này. Phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử chức sắc, chức việc; thuyên chuyển chức sắc, chức việc, nhà tu hành; cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng tôn giáo (từ Điều 18 đến Điều 42)

    (9)Điều kiện thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo

    Tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở đào tạo tôn giáo khi đáp ứng đủ các điều kiện sau đây: Có cơ sở vật chất bảo đảm cho việc đào tạo; Có địa điểm hợp pháp để đặt cơ sở đào tạo; Có chương trình, nội dung đào tạo; có môn học về lịch sử Việt Nam và pháp luật Việt Nam trong chương trình đào tạo; Có nhân sự quản lý và giảng dạy đáp ứng yêu cầu đào tạo.

              (10)Về hoạt động tôn giáo

              Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc, tổ chức được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày được công nhận, chấp thuận hoặc được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo theo quy định sau đây:

    a) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở một xã gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp xã;

    b) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều xã thuộc một huyện gửi thông báo đến Ủy ban nhân dân cấp huyện;

    c) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều huyện thuộc một tỉnh gửi thông báo đến cơ quan chuyên môn về tín ngưỡng, tôn giáo cấp tỉnh;

    d) Tổ chức có địa bàn hoạt động tôn giáo ở nhiều tỉnh gửi thông báo đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.

     Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức, tên các hoạt động tôn giáo, thời gian, địa điểm diễn ra hoạt động.

     Việc thông báo danh mục hoạt động tôn giáo diễn ra hằng năm chỉ thực hiện một lần. Đối với hoạt động tôn giáo không có trong danh mục đã thông báo thì người đại diện tổ chức có trách nhiệm thông báo bổ sung theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này chậm nhất là 20 ngày trước khi diễn ra hoạt động.

    Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc tổ chức hội nghị thường niên có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 45 của Luật này chậm nhất là 20 ngày trước ngày tổ chức hội nghị.

    Văn bản thông báo nêu rõ tên tổ chức; dự kiến thành phần, số lượng người tham dự; nội dung, chương trình, thời gian, địa điểm tổ chức hội nghị.

              (11)hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo

              Được thực hiện hoạt động xuất bản kinh sách và xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo theo quy định của pháp luật về xuất bản và quy định khác của pháp luật.

              Được tham gia các hoạt động giáo dục, đào tạo, y tế, bảo trợ xã hội, từ thiện, nhân đạo theo quy định của pháp luật có liên quan (Điều 55).

     (12) Hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài ( Điều 47 đến 53)

    Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo tập trung tại cơ sở tôn giáo hoặc tại địa điểm hợp pháp khác gửi hồ sơ đề nghị đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi có cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm dự kiến sinh hoạt tôn giáo tập trung.

    Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ; trường hợp không chấp thuận phải nêu rõ lý do.

    Người nước ngoài học tại cơ sở đào tạo tôn giáo ở Việt Nam phải là người cư trú hợp pháp ở Việt Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, tự nguyện đăng ký học và được cơ sở đào tạo tôn giáo gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.

     Tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trước khi cử chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ tham gia hoạt động tôn giáo, đào tạo tôn giáo ở nước ngoài có trách nhiệm gửi hồ sơ đề nghị đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương.

              (13) Về tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo

               Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo bao gồm tài sản được hình thành từ đóng góp của thành viên tổ chức; quyên góp, tặng cho của tổ chức, cá nhân hoặc các nguồn khác theo quy định của pháp luật.

     Tài sản của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo phải được quản lý, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy định của pháp luật.

     Cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo được hình thành theo tập quán, do các thành viên của cộng đồng cùng nhau đóng góp, quyên góp, được tặng cho chung hoặc từ các nguồn khác phù hợp với quy định của pháp luật nhằm phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng là tài sản thuộc sở hữu chung của cộng đồng.

     Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, thế chấp, góp vốn tài sản bằng quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan.

     (14) Nội dung quản lý nhà nước tín ngưỡng, tôn giáo

              a) Xây dựng chính sách, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

    b) Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

    c) Tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

    d) Phổ biến, giáo dục pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

    đ) Nghiên cứu trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tín ngưỡng, tôn giáo.

    e) Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

    f) Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo.

    2. Cơ sở chính trị và pháp lý về công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc

    Các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 Bộ Chính trị khóa VI về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới; Nghị quyết số 25 NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về công tác tôn giáo đều chỉ rõ: “ Công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị”, “Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải nhằm tăng cường đoàn kết đồng bào các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

    “Công tác vận động quần chúng các tôn giáo phải động viên đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc; thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào tôn giáo”.

    Thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, trong đó có đồng bào các tôn giáo”, “Tăng cường đầu tư và thực hiện có hiệu quả các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông tín đồ tôn giáo và vùng dân tộc miền núi còn nhiều khó khăn”.

    Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, xây dựng cuộc sống “tốt đời, đẹp đạo” trong quần chúng tín đồ, chức sắc, nhà tu hành ở cơ sở. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đoàn kết dân tộc, chống đối chế độ”.

    “Giải quyết việc tôn giáo tham gia thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, giáo dục... của Nhà nước, theo nguyên tắc: Khuyến khích các tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận tham gia phù hợp với chức năng, nguyên tắc tổ chức của mỗi tôn giáo và quy định của pháp luật”.

    “Cá nhân tín đồ, chức sắc, chức việc, nhà tu hành tham gia với tư cách công dân thì được khuyến khích và tạo điều kiện thực hiện theo quy định của pháp luật”.

     “Đối với hội đoàn tôn giáo, thực hiện theo nguyên tắc mọi tổ chức tôn giáo phải được Nhà nước công nhận và hoạt động theo quy định của pháp luật”.

     “Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới nội dung, phương thức công tác vận động đồng bào tín đồ các tôn giáo, phù hợp với đặc điểm của đồng bào có nhu cầu luôn gắn bó với sinh hoạt tôn giáo và tổ chức tôn giáo”.

     “Tăng cường hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách đối với chức sắc, chức việc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo”.

    Điều 9 Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt nam định cư ở nước ngoài.

    Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

    Nội dung của Hiến pháp năm 2013 về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã được thể hiện trong nhiều văn bản pháp luật và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015:

    Điều 3. Quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: (1) Tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; (2) Tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước (3) Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; 4) Tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; (5) Thực hiện giám sát và phản biện xã hội; (6) Tập hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và Nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng, Nhà nước; (7) Thực hiện hoạt động đối ngoại nhân dân.

    Điều 4. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam: (1) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật và Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; (2) Tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên; (3) Khi phối hợp và thống nhất hành động, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tuân theo Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đồng thời vẫn giữ tính độc lập của tổ chức mình; (4) Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là tổ chức thành viên, vừa lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

    Điều 7: (1) Quan hệ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với Nhà nước là quan hệ phối hợp để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi bên theo quy định của Hiến pháp, pháp luật và quy chế phối hợp công tác do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan nhà nước có liên quan ở từng cấp ban hành; (2) Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thông tin kịp thời cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam việc thực hiện chế độ báo cáo trước Nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc trách nhiệm quản lý của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; (3) Cơ quan nhà nước có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo quy định của pháp luật; (4) Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoạt động có hiệu quả.

    Luật Tín ngưỡng, tôn giáo khẳng định trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; Điều 4 khẳng định trách nhiệm của MTTQVN:

       (1) Tập hợp đồng bào theo tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không theo tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

        (2) Phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của Nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

        (3)Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; phản biện xã hội đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật.

       (4) Tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ, người theo tín ngưỡng, tôn giáo, các tổ chức tôn giáo và Nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

        (5)  Giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.

    Để thực hiện nhiệm vụ, vai trò nòng cốt nhân dân làm chủ, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc ngày càng tập hợp rộng rãi các tổ chức, cá nhân tiêu biểu trong xã hội làm thành viên của Mặt trận. Hiện nay Ủy ban Trung ương có 48 tổ chức thành viên, 374 ủy viên trong đó có trên 60 đại diện các tổ chức cá nhân các tôn giáo. Công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc được thể hiện trong 5 chương trình hành động của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chương trình phối hợp thống nhất hành động hằng năm. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức ở trung ương và các đơn vị hành chính. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ quan chấp hành giữa hai kỳ đại hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tổ chức: Ở trung ương có Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ban Thường trực Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Ở địa phương có Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và đơn vị hành chính tương đương ( gọi chung là cấp huyện); Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã). Ở mỗi cấp có Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn các cơ quan của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam do Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã thành lập Ban công tác Mặt trận ở thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác ( gọi chung là khu dân cư). Tổ chức và hoạt động của Ban công tác Mặt trận do Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quy định. Theo qui định của pháp luật, Điều lệ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, 5 chương trình phối hợp hành động, Mặt trận Tổ quốc đóng vai chủ trì các thành viên trong thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước, trong giám sát, phản biện xã hội.

    Để thực hiện công tác tôn giáo của Mặt trận, Cơ quan Trung ương Mặt trận có Ban Tôn giáo, có Hội đồng tư vấn về tôn giáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, khóa IX có 25 vị. Các Tổ chức chính trị- xã hội, Mặt trận Tổ quốc các địa phương do cơ cấu tổ chức bộ máy giảm đầu mối nên công tác tôn giáo có nơi để 1 đầu mối, có nơi lồng ghép với ban khác, thực hiện phân công cán bộ phụ trách công tác tôn giáo của Mặt trận, đoàn thể.

    Chức năng, nhiệm vụ của Ban Tôn giáo được qui định tại Quyết định số 2575/QĐ-MTTW-BTT ngày 26/4/2019 của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

    Chức năng: (1) Ban Tôn giáo là ban chuyên môn của cơ quan Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; tham mưu giúp việc cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam và do Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam quyết định thành lập (gọi tắt là Ban Thường trực).

    (2) Chức năng của Ban là nghiên cứu, tham mưu, giúp việc cho Ban Thường trực Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về lĩnh vực công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

      Nhiệm vụ

    1. Nghiên cứu, đề xuất, tham mưu, giúp việc Ban Thường trực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; xây dựng kế hoạch và phối hợp thống nhất hành động với các tổ chức thành viên hướng dẫn, triển khai công tác tôn giáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp; phối hợp với các cơ quan có liên quan của Đảng, Nhà nước trong công tác tôn giáo.

    2. Tham mưu công tác tuyên truyền, vận động đối với đồng bào tôn giáo trong hệ thống Mặt trận; phối hợp triển khai phong trào thi đua yêu nước trong đồng bào tôn giáo.

    3. Nghiên cứu, tham mưu, giúp việc Ban Thường trực về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia xây dựng, phản biện xã hội và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo.

    4. Tham mưu giúp Ban Thường trực trong việc tổ chức thực hiện chức năng giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện chính sách pháp luật có liên quan đến tôn giáo của các cơ quan nhà nước, các đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước.

    5. Nghiên cứu, tham mưu giúp Ban Thường trực hướng dẫn, kiểm tra nội dung công tác tôn giáo của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và phối hợp với các tổ chức thành viên, các cơ quan, đơn vị liên quan triển khai các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động của Mặt trận trong vùng đồng bào có đạo.

    6. Tập hợp ý kiến, tâm tư nguyện vọng của đồng bào các tôn giáo để kiến nghị với các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước xem xét, giải quyết; giúp Ban Thường trực theo dõi, liên hệ, giúp đỡ hoạt động của các vị ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo.

    7. Chủ trì theo dõi, tổng hợp tình hình và tham mưu giúp Đảng đoàn, Ban Thường trực phối hợp, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng và phát huy vai trò của người tiêu biểu trong các tôn giáo.

    8. Tham gia nghiên cứu khoa học về tôn giáo và công tác tôn giáo của Mặt trận; tham gia bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng công tác vận động tôn giáo cho cán bộ Mặt trận các cấp.

    9. Phối hợp với các ban, đơn vị trong cơ quan tham mưu, giúp Ban Thường trực thực hiện mối quan hệ đối với hoạt động Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam; phối hợp và hỗ trợ hoạt động của Văn phòng Uỷ ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam và Báo Người Công giáo Việt Nam.

    10. Thường trực, phối hợp giúp Hội đồng Tư vấn về Tôn giáo của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức các hoạt động theo kế hoạch đã được phê duyệt.

    11. Thực hiện các nhiệm vụ khác do Đảng đoàn, Ban Thường trực giao.

    1. Tình hình tôn giáo, tín ngưỡng ở nước ta hiện nay

    Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo. Đến nay, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo. Cả nước có hơn 25 triệu tín đồ các tôn giáo, chiếm khoảng 27% dân số (Phật giáo có khoảng trên 10 triệu tín đồ, Công giáo có trên 6,7 triệu tín đồ, Cao Đài (đã công nhận 10 hội thánh và 1 pháp môn) với 2,3 tín đồ, Phật giáo Hòa Hảo hơn 1,3 triệu tín đồ, Tin Lành (đã công nhận 10 hội thánh) có hơn 1 triệu tín đồ, Hồi giáo (đã công nhận 8 tổ chức) với khoảng 100.000 tín đồ, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam khoảng 1,5 triệu tín đồ, Đạo Tứ ân Hiếu nghĩa khoảng trên 70 ngàn tín đồ, Đạo Baha’i trên 7 ngàn tín đồ, Đạo Bửu sơn Kỳ hương khoảng 16 nghìn tín đồ, Minh Sư đạo có hơn 1000 tín đồ, Minh Lý đạo - Tam Tông miếu khoảng hơn 1000 tín đồ, Bàlamôn (đã công nhận 2 Hội đồng) khoảng hơn 30 ngàn tín đồ, Giáo hội các Thánh hữu ngày sau của Chúa Giê su Ki tô (gọi tắt là tôn giáo Mặc Môn)có khoảng gần 2000 tín đồ, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn.

     Các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có trên 60 ngàn chức sắc, nhà tu hành; 116 ngàn chức việc; 29 ngàn cơ sở thờ tự, cơ sở sinh hoạt tôn giáo đang sử dụng, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức sắc, nhà tu hành và cơ sở hoạt động từ thiện nhân đạo.

    Ngoài ra, rất đông đảo người dân Việt Nam tham gia các sinh hoạt tín ngưỡng, lễ hội tín ngưỡng và các hành vi tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống của dân tộc. Ước tính trên 90% người dân Việt Nam có tín ngưỡng, tôn giáo. Các "hiện tượng tôn giáo mới" cũng có xu hướng gia tăng.

    Hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta hiện nay

    Theo thống kê của các cơ quan chức năng, nước ta có khoảng hơn 100 hiện tượng tôn giáo mới, "đạo lạ", “tà đạo” với nhiều nguồn gốc khác nhau, gọi chung là các hiện tượng tôn giáo mới. Những hiện tượng tôn giáo mới này, một mặt đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của một bộ phận nhân dân, song mặt khác đã cũng có tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.

    Theo các nhà nghiên cứu về tôn giáo trên thế giới, "hiện tượng tôn giáo mới", "đạo lạ", hay "phong trào tôn giáo mới”, là những nhóm phái xuất hiện từ nửa sau thế kỷ XX trở lại đây, phản ánh những nét mới trong sự chuyển biến niềm tin và lựa chọn niềm tin tôn giáo của nhân loại với các yếu tính như: (1) Tôn giáo mang tính cá thể; (2) Tôn giáo của những “niềm tin song song”; (3) Tôn giáo của những “cứu thế luận hiện thực”; (4) Tôn giáo “mê tín dị đoan”.

    Các hiện tượng tôn giáo mới hoạt động ở các khu vực, 63 tỉnh thành phố hiện nay chủ yếu có các nhóm chính: (1) Nhóm mới hình thành gồm: Tin Lành Đề ga, Hà Mòn, Canh Tân đặc sủng, Amí Sara, Pờ Khắp Brâu, Giáo hội Tin Lành Đấng Christ Việt Nam, Cây Thập giá Chúa Jesu Krits...(2) Nhóm từ những tín ngưỡng, tâm linh trong nước: Tâm Linh Hồ Chí Minh, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Việt Nam Thánh Mẫu, Tâm Linh Đạo, Đạo Trời Thái Bình, Pháp Môn Di Lặc, Bửu Tòa Tam Giáo, Trường Sinh Học… (3) Nhóm từ nước ngoài truyền vào Việt Nam: Thanh Hải Vô Thượng Sư, Pháp Môn Diệu Âm, Pháp Luân Công, Nhất Quán Đạo...

    Một số hiện tượng tôn giáo mới có nguồn gốc Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống của dân tộc đã đáp ứng được nhu cầu tinh thần, bù đắp tâm lý và niềm tin trước những khó khăn trong cuộc sống của một bộ phận người dân. Trong đó, một số hiện tượng tôn giáo mới có những nội dung sinh hoạt gắn với bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa; trân trọng tôn vinh những người có công với đất nước và dân tộc, như: Quốc Tổ Hùng Vương, Trần Hưng Đạo, Ngọc Phật Hồ Chí Minh,... Một số khác do gắn với việc luyện tập tăng cường sức khỏe, kết hợp chữa bệnh bằng các yếu tố “tâm linh” và “bài thuốc” đơn giản, nên có sức “hấp dẫn” đối với những người nghèo không có điều kiện cải thiện sức khỏe và chữa trị các bệnh hiểm nghèo. Tôn giáo là sự phản ánh tâm lý, tình cảm của con người đối với xã hội. Các hiện tượng tôn giáo mới xuất hiện là một trong những phương thức để một bộ phận người dân thể hiện tâm tư, thái độ của mình đối với xã hội thực tại.

    Qua các nghiên cứu đã công bố, bên cạnh một số hiện tượng tôn giáo mới chưa có những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, không ít hiện tượng tôn giáo mới gây ra nhiều tác động tiêu cực, thậm chí các hoạt động này nguy hại tới sức khỏe con người và ảnh hưởng tiêu cực đến khối đại đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc.

    Một số hiện tượng tôn giáo mới còn có hoạt động tìm cách chống phá Đảng, Nhà nước, tổ chức các hoạt động và tuyên truyền luận điệu phê phán xã hội thực tại. Một số khác có những hoạt động chống người thi hành công vụ; sáng tác thơ ca, hò vè có nội dung xuyên tạc những vấn đề quan hệ quốc tế; nói xấu lãnh tụ và chế độ; gây ảnh hưởng xấu tới an ninh chính trị trên địa bàn và đất nước. Một số hiện tượng tôn giáo mới đã công kích các tín ngưỡng truyền thống và tôn giáo hợp pháp, làm phức tạp thêm trong nhận thức của người dân về phân biệt giữa lợi dụng tín ngưỡng để thực hiện các hoạt động “mê tín dị đoan” bất hợp pháp với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo theo qui định của pháp luật.

    Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước và hội nhập quốc tế, trong những năm qua Đảng, Nhà nước ta đã ban hành và từng bước hoàn thiện nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, là cơ sở chính trị và pháp lý để thực hiện và đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các tầng lớp nhân dân, của mọi người, qua đó góp phần quan trọng thực hiện đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Công tác tôn giáo là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ trực tiếp và thông qua MTTQ, các đoàn thể chính trị- xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp đại diện cho mình.

    Các chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo trên đây thể hiện quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác tôn giáo, tạo môi trường pháp lý thông thoáng, thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo; do đó tình hình tôn giáo nói chung có nhiều chuyển biến tích cực, các hoạt động cơ bản bảo đảm đúng pháp luật, các nhu cầu hợp pháp, chính đáng của các tôn giáo được quan tâm giải quyết, tạo niềm tin cho các tôn giáo tham gia đóng góp vào công việc chung của đất nước.

    4. Kết quả chủ yếu công tác tôn giáo của MTTQ giai đoạn 2014-2021

    Ngày 29/12/2015, Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ban hành Kết luận số: 02/KL-ĐCT Về Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tôn giáo. Kết luận của Đoàn Chủ tịch, sau khi nêu ra 5 ưu điểm và 5 hạn chế, yếu kém của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tôn giáo, đã đề ra 7 quan điểm và 6 nhiệm vụ, giải pháp đổi mới công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

    Năm 2018, Đảng đoàn Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã chủ trì xây dựng Đề án “Tăng cường công tác vận động, đoàn kết các tôn giáo ở nước ta hiện nay”; Đề án đã đánh giá thực trạng, nêu rõ nguyên nhân của những kết quả đạt được, hạn chế, thiếu sót, rút ra bài học kinh nghiệm, đưa ra các quan điểm, phương châm, giải pháp tăng cường công tác vận động, đoàn kết các tôn giáo. Các đoàn thể chính trị- xã hội đều là thành viên của MTTQ, công tác vận động đoàn kết các tôn giáo được thực hiện theo chương trình phối hợp, thống nhất hành động chung. Tháng 12/2020 Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã sơ kết việc thực hiện.

    4.1. Những kết quả đạt được

    Thứ nhất, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm của Đảng trong các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX): Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 12/3/2003 về công tác dân tộc; Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 12/3/2003 Về công tác tôn giáo. Năm 2019, Ban Dân vận trung ương đã tham mưu tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 25 và đã ra Chỉ thị số 18-CT/TW của Bộ Chính trị để tiếp tục thực hiện tốt hơn công tác Tôn giáo.

     Thường xuyên tiếp xúc, tăng cường đối thoại, lắng nghe, tìm hiểu để nắm chắc tình hình, tập hợp đầy đủ tâm tư, nguyện vọng của đồng bào các tôn giáo; đồng thời kịp thời thông tin, tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật đến chức sắc, nhà tu hành và tín đồ các tôn giáo.

     Đổi mới công tác thông tin, tuyên truyền theo hướng coi trọng việc tuyên truyền gắn với phát huy thế mạnh, mặt tích cực của các tôn giáo tham gia các hoạt động an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo. Tôn vinh, biểu dương, nhân rộng các kinh nghiệm, sáng kiến, gương người tốt việc tốt, tiêu biểu, điển hình trong các tập thể, cá nhân tôn giáo.

     Định kỳ hàng quý, Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp tổ chức họp giao ban, chia sẻ thông tin, đánh giá kết quả công tác và thống nhất những nội dung cần phối hợp trong công tác tôn giáo giữa Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên và các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước.

    Thứ hai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp thường xuyên chăm lo xây dựng và phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các tôn giáo, nhất là vai trò của chức sắc, nhà tu hành, chức việc và trí thức tôn giáo; phối hợp cùng các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong vùng đồng bào có đạo. Tăng cường tập hợp các tổ chức tôn giáo đã được công nhận có đủ điều kiện theo quy định tham gia làm thành viên của Mặt trận; tập hợp, thu hút các cá nhân tiêu biểu tôn giáo tham gia Ủy ban MTTQVN, Ban chấp hành các đoàn thể nhân dân và cơ quan dân cử ở các cấp với số lượng, cơ cấu phù hợp để đảm bảo tính đại diện của các tôn giáo trong Mặt trận, đoàn thể nhân dân và cơ quan dân cử. Đặc biệt là đã tuyên truyền, vận động các chức sắc, đồng bào các tôn giáo tích cực tham gia bầu cử Quốc hội khóa XIV, XV và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp năm 2016 và năm 2021.

     Ủy ban MTTQVN các cấp làm tốt vai trò chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các tôn giáo.

    Mặt trận Tổ quốc Việt Nam duy trì, đẩy mạnh và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động trong tôn giáo và các phong trào mang đặc điểm riêng của tôn giáo gắn với thực hiện cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" (tham gia các nội dung cụ thể: giảm nghèo, môi trường, an sinh xã hội, nếp sống văn hóa, an toàn giao thông, cảm hóa giúp người lầm lỗi...). Chú trọng phát hiện, xây dựng và nhân rộng mô hình, kinh nghiệm tốt của Mặt trận các địa phương trong công tác tôn giáo. Định kỳ sơ kết, tổng kết, nhân rộng các mô hình, nhân tố tích cực trong trong hoạt động, sinh hoạt của các tổ chức, cá nhân tôn giáo. Đặc biệt năm 2020  và 2021 đã tuyên truyền vận động sâu rộng các chức sắc, chức việc, nhà tu hành, đồng bào tôn giáo thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống Covid của Nhà nước, ủng hộ quĩ vác xin và hỗ trợ, giúp đỡ những người yếu thế, khó khăn trong đại dịch

    Phát huy truyền thống tốt đẹp gắn bó đồng hành cùng dân tộc, sống "Tốt đời đẹp đạo" và tinh thần trách nhiệm cao cả với đất nước, với Nhân dân; hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gửi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài về phòng, chống đại dịch Covid-19; Nghị quyết của Quốc hội; các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về "Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch bệnh Covid-19", Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã có nhiều văn bản gửi lãnh đạo các tổ chức tôn giáo V/v tuyên truyền, vận động các tôn giáo phòng, chống dịch bệnh Covid-19, lập zalo với đại diện các tổ chức tôn giáo, cá nhân tiêu biểu, mặt trận Tổ quốc 63 tỉnh, thành phố, các đoàn thể để kết nối, chia sẻ thông tin, cổ vũ các tôn giáo ở Việt Nam tích cực tham gia phòng, chống dịch Covid-19 với nhiều mô hình tốt, cách làm hay, sáng tạo, lay động lòng người, có tính lan tỏa, góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta ngăn chặn, từng bước đẩy lùi dịch bệnh Covid-19 tại Việt Nam.

    Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ động và tích cực tham gia có trách nhiệm cùng Đảng, Nhà nước tiếp tục phát triển, bổ sung, hoàn thiện các chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo và công tác tôn giáo. Phát huy các giá trị tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo trong đời sống xã hội và phát triển bền vững. Tăng cường đoàn kết các tôn giáo trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

    Phối hợp với cơ quan chức năng nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm phát huy vai trò của các tôn giáo trong việc tham gia các hoạt động an sinh xã hội, xã hội hóa y tế, giáo dục, dạy nghề, bảo trợ xã hội...

     Thứ tư, đã tăng cường hơn nhiệm vụ giám sát và phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể chính trị - xã hội trong công tác tôn giáo. Chủ động phối hợp cùng các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt nhiệm vụ phản biện xã hội đối với các dự thảo chủ trương, chính sách pháp luật, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo.

    Mặt trận, đoàn thể tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế phối hợp với các cơ quan Nhà nước để triển khai thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của địa phương về công tác tôn giáo.

    Thứ năm, vận động các tôn giáo nêu cao vai trò, trách nhiệm của mình trong đời sống xã hội, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trách nhiệm trong việc hướng dẫn chức sắc, nhà tu hành, tín đồ thực hiện sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đúng pháp luật, phù hợp với điều kiện của đất nước.

     Đa dạng hóa các hình thức, tổ chức nhằm tập hợp vận động nhân dân phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, sống tốt đời đẹp đạo. Xây dựng và ký kết các chương trình phối hợp giữa Ban Thường trực Ủy ban MTTQVN, ban chấp hành các đoàn thể nhân dân các cấp với các tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc trong việc tham gia thực hiện các công việc chung, góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Phối hợp với các tổ chức tôn giáo đấu tranh kịp thời với các hành vi, hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tiêu cực, phản văn hoá, mê tín, hủ tục, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo.

    Thứ sáu, bước đầu đã quan tâmxây dựng tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác tôn giáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, ở cơ quan Trung ương MTTQVN đã tách Ban Dân tộc- Tôn giáo thành Ban Tôn giáo và Ban Dân tộc để chuyên sâu hơn, phù hợp với chức năng nhiệm vụ, yêu cầu đổi mới công tác vận động, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận Tổ quốc các cấp và các đoàn thể chính trị- xã hội đã phân công cán bộ phụ trách công tác tôn giáo, một số cấp, nơi có ban tôn giáo riêng.

    Nhìn chung, giai đoạn vừa qua, Mặt trận Tổ quốc đã tiếp tục phát huy 5 ưu điểm: (1) vai trò cầu nối giữa tôn giáo với Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân; (2) chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đồng bào các tôn giáo; (3) phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo mình trong đời sống xã hội; (4) phát huy vai trò của các tổ chức tôn giáo hợp pháp, của các vị chức sắc, nhà tu hành, người tiêu biểu trong các tôn giáo; (5 Tổ chức bộ máy và cán bộ Mặt trận, tổ chức chính trị- xã hội làm công tác tôn giáo ở các cấp bước đầu đã được quan tâm sắp xếp, bố trí; việc phối hợp giữa các cơ quan trong công tác tôn giáo thường xuyên, hiệu quả hơn. Kết quả đó đóng góp rất quan trong trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nét đặc trưng trong đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

    4.2. Hạn chế

     (1) Việc tham gia nghiên cứu, phát triển lý luận về tôn giáo, công tác tôn giáo nói chung và của Mặt trận nói riêng còn chậm, chưa theo kịp thực tiễn đời sống tôn giáo trong nước và quốc tế. Kiến thức, trình độ, kỹ năng của cán bộ làm công tác vận động, đoàn kết tôn giáo còn bất cập.

    (2) Việc chăm lo, bảo vệ và giải quyết các nhu cầu, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tôn giáo chưa được chủ động, thường xuyên, có việc còn bất cập. Một số lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội còn ít tiếp xúc, đối thoại với lãnh đạo các tôn giáo. Vai trò đề xuất của Mặt trận một số nơi còn hạn chế.

    Việc kiến nghị, đề xuất và tham gia cùng các cơ quan chức năng Nhà nước trong việc thể chế hoá các chủ trương chính sách tôn giáo của Đảng thành các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước còn chậm, làm hạn chế tác dụng của việc vận động, tập hợp và phát huy vai trò của các tôn giáo, nhất là tham gia vào công tác xã hội hóa y tế, giáo dục, từ thiện nhân đạo.

    (3) Việc phát triển thành viên, đoàn viên, hội viên trong các tổ chức, cá nhân tôn giáo của Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội ở một số địa phương và trong một số tôn giáo còn hạn chế, khó khăn. Một số chức sắc, nhà tu hành, tín đồ trong tôn giáo chưa phát huy tốt ý thức trách nhiệm công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

     (4) Việc phát hiện, biểu dương, khen thưởng và nhân rộng những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong đồng bào các tôn giáo có nhiều thành tích trong các phong trào thi đua yêu nước, sống "tốt đời, đẹp đạo" có mặt còn hạn chế và chưa kịp thời; chưa phát huy tốt vai trò tập hợp, đoàn kết chức sắc, tín đồ tôn giáo của một số tổ chức xã hội tôn giáo như Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, Hội đoàn kết sư sãi yêu nước.

    (5) Vai trò của Mặt trận trong việc tổ chức đối thoại, tiếp xúc giữa các tôn giáo với cấp ủy, chính quyền chưa được phát huy đúng mức. Việc vận động, tập hợp chức sắc, nhà tu hành tham gia cơ quan dân cử ở một số địa phương còn bất cập, hạn chế.

    Nguyên nhân của những hạn chế trên là do

    -Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, MTTQ, các ban, ngành và đoàn thể chính trị- xã hội từ Trung ương đến địa phương về tăng cường vận động, đoàn kết các tôn giáo chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ và sâu sắc, nhất là ở cơ sở; chưa vận dụng đầy đủ tư tưởng, quan điểm đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước và Mặt trận trong thực tiễn hàng ngày.

    - Tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác tôn giáo của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được quan tâm đầy đủ, lực lượng mỏng, thiếu chuyên sâu; năng lực và kiến thức chuyên môn hạn chế, ít được bồi dưỡng và đào tạo, chưa thực sự tâm huyết và có uy tín đối với tổ chức, cá nhân tôn giáo. 

    - Có sự cản trở của một bộ phận chức sắc trong một số tổ chức giáo hội, cùng với sự ràng buộc của giáo lý, giáo luật tôn giáo; sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, cơ chế lợi ích, một số chức sắc không giữa được đạo hạnh, ảnh hưởng tới niềm tin của người dân.

    5. PHƯƠNG HƯỚNG CÔNG TÁC TÔN GIÁO CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

    Để tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong thời gian tới cần tập trung triển khai một số nội dung chủ yếu sau đây:

    (1) Tuyên truyền, vận động, hướng dẫn đồng bào các tôn giáo triển khai thực hiện có hiệu quả các nội dung Nghị quyết đại hội XIII của Đảng; tích cực tham gia xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện tốt các chương trình mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế- xã hội, bảo đảm an sinh xã hội của đất nước và địa phương giai đoạn 2021-2025.

    Tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận số 02-KL/ĐCT, ngày 29/12/2015 của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong công tác tôn giáo và các văn bản mới hướng dẫn, chỉ đạo sau tổng kết Nghị quyết số 25/NQ-TW, văn bản chỉ đạo thực hiện Đề án “Tăng cường công tác vận động, đoàn kết các tôn giảo ở nước ta hiện nay” của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

       Tích cực tham gia xây dựng hoàn thiện thể chế chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, nhất là về đất đai, tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia giáo dục, y tế, dạy nghề, bảo trợ xã hội, nhân đạo, từ thiện. Xây dựng và phát huy cốt cán, người tiêu biểu trong các tôn giáo.

    (2) Tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tổ chức và đồng bào các tôn giáo phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo trong đời sống xã hội như: phòng chống dịch covid, đảm bảo an toàn giao thông; tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống ma túy, tệ nạn xã hội, HIV/AIDS; chung tay giúp đỡ đồng bào gặp thiên tai, bão lũ và đồng bào gặp hoàn cảnh khó khăn; tích cực hưởng ứng và tham gia triển khai các cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh"; "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" và các phong trào thi đua yêu nước khác do Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động.

    Thực hiện nghiêm các chỉ đạo, hướng dẫn về các nội dung phòng, chống dịch bệnh Covid-19; tích cực hưởng ứng Lời kêu gọi của Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trưng ương MTTQ Việt Nam “Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch bệnh Covid-19”; tích cực tham gia đóng góp ủng hộ “Quỹ Vắc xin phòng Covid-19” và hỗ trợ người gặp khó khăn.

    Chủ động phối hợp với các ban của Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể  trong tuyên truyền, vận động; chú trọng cung cấp tài liệu, ký chương trình phối hợp thực hiện giữa mặt trận với các cơ quan và tổ chức tôn giáo.

     (3) Phối hợp với các cơ quan chức năng tuyên truyền, vận động thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định 162/NĐ-CP Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật tín ngưỡng, tôn giáo cho đội ngũ cán bộ Mặt trận, đoàn thể các cấp và chức sắc, nhà tu hành, chức việc các tôn giáo.

    Thực hiện tốt hơn chức năng giám sát, phản biện xã hội theo qui định của Luật; giám sát thực hiện các cơ chế hỗ trợ của nhà nước với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào tôn giáo (bồi thường thiệt hại, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ thiệt hại do thiên tai, bão lũ...). Tích cực tham gia góp ý kiến, phản biện xã hội đối với dự thảo các dự án, kế hoạch, chương trình kinh tế- xã hội liên quan đến công tác tôn giáo của địa phương; các chương trình phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn. Thực hiện giám sát, phản biện xã hội của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc các cấp theo Nghị quyết liên tịch số 403 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ và Đoàn chủ tịch UBTWMTTQVN.

    (4) Phối hợp với các cơ quan chức năng ở địa phương quan tâm hướng dẫn, tạo điều kiện cho tổ chức, chức sắc và đồng bào các tôn giáo tổ chức tốt các ngày lễ trọng của tôn giáo, đảm bảo trang nghiêm, chu đáo, an toàn, tiết kiệm và theo quy định của pháp luật. Tổ chức thăm hỏi, động viên, tặng quà, thăm viếng các tổ chức, chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo nhân các ngày lễ trọng của tôn giáo, Tết cổ truyền của dân tộc và khi chức sắc, nhà tu hành ốm đau, qua đời.

    (5) Tiếp tục phối hợp với sở, ban, ngành liên quan tháo gỡ các vướng mắc để tạo điều kiện cho các tôn giáo tham gia công tác giáo dục, mầm non, bảo trợ xã hội, dạy nghề, y tế, an sinh xã hội. Trên cơ sở đó bổ sung các biện pháp, đề xuất nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong các chính sách, quy định của pháp luật liên quan để tạo điều kiện phát huy, nhân rộng các mô hình tốt.

    (6) Quan tâm có các hình thức biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với tổ chức giáo hội, chức sắc, nhà tu hành, chức việc, tín đồ tiêu biểu có nhiều thành tích trong các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động ở địa phương. Xây dựng Người tiêu biểu trong đồng bào các tôn giáo. Biểu dương, khen thưởng kịp thời các tổ chức, cá nhân tôn giáo tiêu biểu, tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh Covid-19.

    (7) Phối hợp, giúp đỡ Ủy ban Đoàn kết Công giáo của địa phương tổ chức tốt các hoạt động theo hướng dẫn của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam, nhất là việc Đại hội Ủy ban Đoàn kết Công giáo cấp. Chủ động đề nghị cấp ủy, chính quyền quan tâm các nội dung giúp Ủy ban Đoàn kết Công giáo địa phương đổi mới nội dung, nâng cao hiệu quả hoạt động, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào có đạo.     

    (8) Tiếp tục kiện toàn tổ chức, cán bộ làm công tác tôn giáo của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng tăng cường chuyên môn sâu, đảm bảo tính ổn định, kế thừa và phát triển. Biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn nghiệp vụ về công tác tôn giáo cho cán bộ mặt trận, các đoàn thể chính trị- xã hội theo các chuyên đề hằng năm.

    (9) Tăng cường phối hợp và thống nhất hành động với các tổ chức thành viên trong công tác tôn giáo. Bổ sung các chức sắc tôn giáo, tín đồ tiêu biểu làm thành viên ban công tác mặt trận khu dân cư, ủy ban MTTQ các cấp.

    Vận động, đoàn kết các chức sắc, tín đồ người Việt Nam ở nước ngoài hướng về xây dựng đất nước, truyền bá, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.

    (10) Chủ động nắm bắt, tập hợp đầy đủ, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của chức sắc, tổ chức và đồng bào các tôn giáo để báo cáo với Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và kiến nghị với cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết theo quy định của pháp luật.

    6. Những yêu cầu với cán bộ mặt trận, đoàn thể làm công tác tôn giáo

    Để công tác tôn giáo của Mặt trận, đoàn thể luôn đạt hiệu quả và thành công, cán bộ mặt trận, đoàn thể làm công tác tôn giáo cần quan tâm các nội dung sau:

    Một là, nắm vững chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo; đổi mới nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo; có kiến thức nhất định và sự hiểu biết về lịch sử ra đời, giáo lý, giáo luật lễ nghi, phong tục, tập quán của các tôn giáo.

    Hai là, tạo mối quan hệ hợp tác tốt, giữ tín nhiệm với các chức sắc, chức việc, nhà tu hành các tổ chức tôn giáo; biết lồng ghép các chương trình công tác, các cuộc vận động, thi đua yêu nước trong vận động các chức sắc và đồng bào tôn giáo; có kiến thức nhất định để chủ trì, phối hợp thực hiện nhiệm vụ tổng hợp ý kiến, giám sát, phản biện xã hội.

    Ba là, có kiến thức và phong cách công tác dân vận, gần gũi, lắng nghe, chia sẻ; biết phát huy vai trò của cốt cán, người tiêu biểu, có uy tín trong các tôn giáo; tổ chức cổ vũ các hoạt động “tốt đời, đẹp đạo” của các tôn giáo.

    Bốn là,nắm chắc nội dung chủ trì, nội dung tham gia của mặt trận; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức trong công tác tôn giáo; có khả năng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan làm công tác tôn giáo của Đảng, Nhà nước, các cấp; đề xuất, tham mưu góp ý giải quyết việc liên quan đến tôn giáo bảo đảm đúng pháp luật, hài hòa, ổn định, không nảy sinh phức tạp.

    Năm là, tâm huyết và trách nhiệm với công việc; thực hiện tốt phương châm “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm với dân”, tác phong gần gũi, chân thành của cán bộ mặt trận, “mắt trông, tai nghe, miệng nói, tay làm”, “ nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.

    [1][1] Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030, tr. 169.